- Giới thiệu
- Bác sĩ
- Phương pháp điều trị
- Hình ảnh chuyên môn
Là căn bệnh thường gặp ở phụ nữ sau mãn kinh, ung thư nội mạc tử cung xuất phát từ khối u ác tính khu trú ở vùng tiểu khung của người phụ nữ, gây ra 90% trường hợp ung thư ở buồng tử cung. Việc điều trị Ung thư nội mạc tử cung không hề dễ dàng, tuy nhiên với sự hợp tác y tế sâu rộng giữa Bệnh viện Hồng Ngọc và các đối tác nước ngoài sẽ đem đến phương pháp điều trị hiệu quả nhất.
Ung thư nội mạc tử cung là một trong những bệnh ung thư phổ biến trên thế giới, đặc biệt ở phụ nữ Mỹ. Nó bắt đầu trong tế bào nội mạc tử cung, niêm mạc tử cung của người phụ nữ. Ung thư nội mạc tử cung đôi khi được gọi là ung thư tử cung, tuy nhiên cũng có những tế bào khác trong tử cung có khả năng phát triển thành ung thư như cơ hoặc các tế bào myometrial.
Đây là ung thư thường gặp ở nữ giới vì ngay trong năm 2012 xảy ra 320.000 trường hợp, nó đứng thứ ba nguyên nhân gây tử vong từ bệnh ung thư phụ khoa của nữ giới, sau ung thư buồng trứng và ung thư cổ tử cung. Và bệnh có thể gặp ở bất các độ tuổi khác nhau.
Ung thư nội mạc tử cung thường được phát hiện ngay trong giai đoạn đầu vì nó có dấu hiệu chảy máu âm đạo giữa chu kỳ kinh nguyệt hoặc sau khi mãn kinh nên dễ nhận biết. Nếu ung thư nội mạc tử cung được phát hiện sớm, việc điều trị sẽ cho kết cao hơn.
Tuổi tác: Tỷ lệ mắc ung thư nội mạc tử cung tập trung nhiều nhất ở những phụ nữ sau mãn kinh từ 40 tuổi trở lên.
Tiền sử sức khỏe cá nhân: Những người có kinh nguyệt sớm và mãn kinh muộn luôn có nguy cơ mắc các căn bệnh ung thư phụ khoa cao hơn, và ung thư nội mạc tử cung cũng không phải là ngoại lệ. Bên cạnh đó, việc mang thai đã được khoa học chứng minh có khả năng làm giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung, vì vậy những phụ nữ chưa từng sinh con cần tầm soát ung thư nội mạc cổ tử cung thường xuyên hơn.
Béo phì: Tình trạng béo phì tưởng chừng không liên quan có thể gây cường estrogen, làm biến đổi cân bằng nội tiết tố trong cơ thể, gây tăng cường chuyển hóa Androstenedio ở lớp mỡ dưới da, từ đó tăng nguy cơ mắc ung thư nội mạc tử cung ở nữ giới.
Điều trị nội tiết tố: Những bệnh nhân điều trị nội tiết tố liều cao trong thời gian dài dẫn đến chu trình rụng trứng không đều, dậy thì sớm, mãn kinh muộn, làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư nội mạc tử cung.
Chảy máu âm đạo bất thường: Bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung thường có hiện tượng chảy máu bất thường, lượng máu chảy ra thường khá ít. Một số trường hợp sau khi mãn kinh, bệnh nhân sẽ bị chảy máu âm đạo thường xuyên hoặc ngắt quãng. Khi bệnh ở giai đoạn cuối, âm đạo sẽ ra máu kèm theo các mô giống như thịt bị thối rữa.
Dịch tiết âm đạo bất thường: Lúc đầu xuất hiện tình trạng dịch nhờn kèm theo một chút máu. Nhưng sau đó tình trạng viêm nhiễm, hoại tử có thể xuất hiện nhiều dịch mủ có mùi hôi. Đôi khi dịch tiết ra còn lẫn với vài mô nhỏ trong khối u.
Đau nhức: Đau bụng, tiểu đau, đau khi quan hệ. Nếu như tế bào ung thư đã thâm nhập qua màng đệm hoặc làm xói mòn các mô liên kết bên cạnh tử cung, trực tràng, bàng quang hoặc chèn ép lên các tổ chức khác, người bệnh có thể thấy đau nhức quanh vùng xương chậu, cơn đau ngày càng nặng thêm khi chạy dọc từ vùng thắt lưng, bụng dưới xuống đến phần đùi và đầu gối.
Các triệu chứng ung thư nội mạc tử cung khác: sốt, huyết áp cao, tiểu đường, chán ăn, sút cân …
Chụp buồng tử cung: Bác sĩ có thể bơm thuốc cản quang với áp lực nhẹ đủ thuốc ngấm trong buồng tử cung mà không cần lan ra hai vòi trứng, và thấy được hình ảnh khuyết, bờ không đều, nham nhở, buồng tử cung lớn, có hình ảnh đọng dịch.
Soi buồng tử cung: Quan sát trực tiếp hình ảnh nội mạc tử cung, nếu phát hiện các thương tổn như: nụ sùi, vùng loét hoại tử chảy máu, hoặc hình ảnh quá sản nội mạc tử cung chạm vào dễ chảy máu cũng trở thành căn cứ để bác sĩ chẩn đoán hoặc cho làm các xét nghiệm tiếp theo.
Siêu âm
Sử dụng thiết bị chuyên dụng giúp bác sĩ xem xét độ dày, kết cấu của nội mạc tử cung và nhận diện các thương tổn hay dấu hiệu bất thường trước khi thực hiện bước sinh thiết nội mạc tử cung.
Sinh thiết nội mạc tử cung
Sinh thiết mẫu tế bào bên trong tử cung để phân tích trong phòng thí nghiệm để tìm kiếm các tế bào ác tính. Phương pháp này được thực hiện không cần gây mê. Nếu quá trình sinh thiết không lấy đủ các mô, các bác sĩ sẽ phải tiến hành nong và nạo mô từ niêm mạc tử cung để kiểm tra tế bào ung thư dưới kính hiển vi.
Để kiểm tra và xác định tình trạng lây lan của tế bào ung thư, có thể thực hiên thêm các xét nghiệm khác như chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ…
Điều trị ung thư nội mạc tử cung còn dựa vào các giai đoạn ung thư nội mạc tử cung được chia thành 4 giai đoạn theo FIGO 1988 (Fédération Internationale de Gynécologie et Obsstétrique).
– Giai đoạn I
+ IA: Tổn thương chỉ giới hạn ở bề mặt niêm mạc tử cung.
+ IB: Tế bào ung thư đã ăn sâu vào lớp cơ tử cung <50%.
+ IC: Tổn thương ăn sâu vào lớp cơ tử cung >50%.
– Giai đoạn II
+ IIA: Tế bào ung thư lan vào ống cổ tử cung, chỉ ở niêm mạc.
+ IIB: Tế bào ung thư lan vào tổ chức đệm của ống cổ tử cung.
– Giai đoạn III
+ IIIA: Tế bào ung thư xâm nhiễm vào thanh mạc hoặc phần phụ, tế bào phúc mạc.
+ IIIB: Tế bào ung thư di căn âm đạo.
+ IIIC: Tế bào ung thư di căn tiểu khung hay cạnh động mạch chủ.
– Giai đoạn IV
+ IVA: Tế bào ung thư xâm nhiễm vào bàng quang hay ruột.
+ IVB: Tế bào ung thư di căn xa bao gồm di căn hạch trong ổ bụng hay hạch bẹn.
Liệu pháp Hormone
Đây là phương pháp điều trị cho những người đang trong độ tuổi sinh đẻ và muốn bảo toàn khả năng làm mẹ nên không thực hiện cắt bỏ tử cung. Bệnh nhân sẽ được điều trị bằng hormone progesterone để ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư ác tính.
Phương pháp phẫu thuật
Phẫu thuật là phương pháp điều trị ung thư nội mạc tử cung tối ưu nhất. Các bác sĩ sẽ loại bỏ toàn bộ tử cung, ống dẫn trứng hoặc buồng trứng cũng như hệ thống hạch bạch huyết để tế bào ác tính không lây lan rộng.
Phương pháp xạ trị
Xạ trị là biện pháp điều trị được áp dụng sau khi phẫu thuật, giúp ngăn chặn nguy cơ bệnh tái phát hoặc ngăn tế bào ung thư phát triển lây lan đến các cơ quan khác trong cơ thể. Tia X liều cao được sử dụng để tiêu diệt các tế bào ác tính và hạn chế hiện tượng tái phát tế bào ác tính tại chỗ.
Hóa trị liệu
Hóa trị liệu là sử dụng hóa chất đưa vào cơ thể người nhằm mục đích cô lập và tiêu diệt tế bào ung thư. Mỗi đợt hóa trị chỉ tiêu diệt một tỉ lệ nhất định các tế bào ung thư, nếu khối u quá to thì hóa trị sẽ không hiệu quả bởi vì tốc độ sản sinh tế bào ung thư mới nhanh hơn số lượng bị tiêu diệt.
Liệu pháp miễn dịch mới
Liệu pháp miễn dịch ung thư (Cancer Imunotherapy) là kỹ thuật kích thích hệ thống miễn dịch của người bệnh để tấn công lại các khối u ác tính. Liệu pháp này có lịch sử khá lâu đời, vào năm 1850, các Bác sĩ ở CHLB Đức đã nhận thấy khối u của bệnh nhân ung thư thỉnh thoảng co lại khi họ bị nhiễm trùng và từ đó ý tưởng sử dụng Hệ miễn dịch của cơ thể để kiểm soát và chống lại ung thư đã được nghiên cứu.
Tuy nhiên Liệu pháp miễn dịch từ trước đến nay chỉ củng cố tác dụng gia tốc, kích hoạt miễn dịch, nhưng cuối cùng lại bị tế bào ung thư ức chế kích hoạt và không thể tiêu diệt tế bào ung thư. Liệu pháp miễn dịch mới “gia tốc + kìm hãm” lại hoàn toàn khác, nó có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư hiệu quả, nhờ dễ dàng kích hoạt NK, T làm ung thư không thể phản kích, suy yếu.
Điều trị ung thư nội mạc tử cung tại Bệnh viện Hồng Ngọc và các đối tác nước ngoài tại Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản là quy trình khép kín, bệnh nhân luôn được theo dõi, chăm sóc sát sao trong suốt quá trình điều trị để có hiệu quả cao nhất:
Đáp ứng nhu cầu điều trị ung thư chất lượng với điều kiện cơ sở vật chất và chuyên môn tốt nhất, bệnh viện đa khoa Hồng Ngọc hợp tác với bệnh viện BNH, Kyungpook – hai bệnh viện hàng đầu trong lĩnh vực ung thư phụ khoa tại Thái Lan, bệnh viện Daegu Fatima uy tín tại Hàn Quốc và bệnh viện Shonan Medical Memorial Hospital Nhật Bản để chẩn đoán và điều trị ung thư tiêu chuẩn quốc tế. Chương trình tạo điều kiện cho bệnh nhân được chăm sóc và điều trị bởi đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong khu vực, với những phương pháp điều trị ung thư nội mạc tử cung tiên tiến nhất trên thế giới hiện nay.
Đây chính là cơ hội để bệnh nhân ung thư ở Việt Nam tìm được phương án điều trị tốt nhất, có khỏi chữa khỏi căn bệnh nguy hiểm để trở về với cuộc sống gia đình.