- Giới thiệu
- Bác sĩ
- Phương pháp điều trị
- Hình ảnh chuyên môn
Ung thư tuyến ức thuộc loại ung thư ở vùng trung thất trước trải từ cổ họng tới trước tim. Đây là bệnh ung thư có tiên lượng tốt khi được chẩn đoán sớm nhưng bệnh nhân mắc bệnh thường không có triệu chứng nên rất khó phát hiện. Vì vậy việc điều trị ung thư tuyến ức cũng gặp nhiều khó khăn.
Tuyến ức là một cơ quan nhỏ nằm ở phần ngực, phía dưới xương ức. Đây là bộ phận sản xuất ra một loại tế bào bạch cầu để bảo vệ cơ thể khỏi các bệnh nhiễm trùng khi còn nhỏ và trước khi ra đời.
Ung thư tuyến ức là một bệnh hiếm gặp, chỉ chiếm 30% trường hợp các u trung thất trước ở người lớn và 15% các u trung thất trước ở trẻ em. Ung thư tuyến ức có 3 dạng chính như sau:
– Ung thư bắt nguồn từ tế bào biểu mô, có độ ác tính cao và khó chẩn đoán tế bào học.
– Ung thư phát sinh từ tế bào Kulchitsky, rất ít khi gặp và cũng khó chẩn đoán.
– Ung thư phát sinh từ tế bào Lympho, đây là loại thường gặp nhất trong các loại ung thư tuyến ức.
Hầu hết các loại bệnh ung thư tuyến ức vẫn chưa được xác định rõ yếu tố nguy cơ và nguyên nhân gây bệnh. Có tới ½ bệnh nhân bị ung thư nhưng lại không có dấu hiệu lâm sàng nào, tuy nhiên có thể chẩn đoán nguyên nhân gây bệnh dựa vào một số dấu hiệu dưới đây:
– Khoảng 50% bệnh nhân bị nhược cơ như sụp mí, nhược cơ vùng cổ, nhược cơ ngực khi kiểm tra có thể phát hiện ra ung thư tuyến ức.
– 50% bệnh nhân ung thư tuyến ức được phát hiện do có các bệnh như bị thiếu máu hồng cầu, niêm mạc nhợt nhạt, da xanh xao… Tình trạng giảm Gamma Globulin huyết cũng là nguyên nhân làm tăng độ mẫn cảm với các tác nhân gây nên bệnh.
– Người mắc bệnh thấp khớp, lupus cũng có nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến ức cao hơn những người khác.
– Ở giai đoạn sớm, bệnh nhân bị ung thư tuyến ức có rất ít triệu chứng. Có tới gần ½ bệnh nhân không hề có biểu hiện gì và chỉ được phát hiện một cách tình cờ trong lần chụp X-quang lồng ngực.
– Khi khối u xâm lấn và chèn ép vào các bộ phận trong trung thất sẽ gây ra dấu hiệu ho, đau tức ngực và khó thở.
– Một số triệu chứng ung thư tuyến ức khác gồm khó nuốt, khan giọng, ho ra máu, giảm tiết mồ hôi ở phần bị tổn thương, sụp mí, co đồng tử, sốt và giảm cân, loạn nhịp tim.
– Hội chứng chèn tĩnh mạch vùng cổ khiến mặc bị sưng nề do máu từ đầu từ tim bị cản trở.
Phần lớn các trường hợp mắc ung thư tuyến ức chỉ được phát hiện khi bệnh đã tiến triển tới giai đoạn muộn do bệnh không có biểu hiện sớm. Do đó, các chuyên gia y tế khuyến cáo nên khám sức khỏe định kỳ và thực hiện tầm soát ung thư để phát hiện và điều trị bệnh kịp thời (nếu có).
Khám lâm sàng: Bác sĩ có thể khám chấn đoán ung thư tuyến ức thông qua các biểu hiện nhược cơ mắt, nhược cơ ngực hoặc ngược cơ vùng cổ. Ngoài ra, một số bệnh nhân còn có biểu hiện tự miễn kèm theo viêm đa cơ-xương khớp, lupus ban đỏ hệ thống, viêm tuyến giáp, thấp khớp, viêm loét đại trực tràng, viêm cơ tim… hoặc có hội chứng cường giáp, thiểu năng tuyến giáp…
Các chẩn đoán hình ảnh:
– Chụp X-quang lồng ngực có thể giúp phát hiện khối u phát sinh từ bóng trung thất ra 2 bên trường phổi có bờ hình oval hoặc tròn và thường chia thùy.
– Chụp CT để bổ sung chẩn đoán cho kết quả chụp X-quang ngực thông thường. Phương pháp này giúp xác định mức độ xâm lấn và ranh giới của khối u giúp bác sĩ phần nào tiên lượng bệnh và lên kế hoạch điều trị.
– Chụp cộng hưởng từ (MRI) thường ít được sử dụng so với CT, tuy nhiên kỹ thuật này mang lại kết quả hình ảnh đa dạng nhiều mặt, có khả năng xác định được khối u đã xâm lấn tới mạch máu hay chưa.
– Siêu âm đầu dò thực quản hoặc siêu âm qua thành ngực nhằm đánh giá mức độ ung thư tuyến ức ác tính.
Phương pháp nội soi:
– Nội soi trung thất: Là kỹ thuật chẩn đoán ung thư tuyến ức khá đơn giản, được thực hiện dưới hình thức gây mê toàn thân. Phương pháp này giúp tiếp cận một phần trung thất sau và trung thất giữa, cho hiệu quả chẩn đoán lên tới 90%.
– Nội soi lồng ngực: Đây là phương pháp chẩn đoán xâm lấn nhiều, cần phải gây mê toàn thân nhưng lại cho kết quả chẩn đoán tới gần 100% khối u ở trung thất. Phương pháp này chỉ được áp dụng khi không thể thực hiện sinh thiết bằng nội soi trung thất.
Sinh thiết kim và chọc hút kim nhỏ: Được thực hiện bằng cách kết hợp phương pháp như CT và siêu âm để định vị vị trí khối u.
Cách phân loại giai đoạn ung thư tuyến ức theo Masaoka được sử dụng rộng rãi nhất. Theo đó, ung thư tuyến ức được chia thành 4 giai đoạn cụ thể như sau:
Giai đoạn 1: Khối u vẫn nằm hoàn toàn trong vỏ bao và không có xâm lấn trên vi thể.
Giai đoạn 2: Khối u đã xâm lấn vào tổ chức mỡ ở xung quanh hoặc màng phổi trung thất. Trên vi thể có xâm lấn vỏ bao.
Giai đoạn 3: Tế bào ung thư đã xâm lấn vào các cơ quan lân cận như màng tim, mạch máu lớn hay phổi.
Giai đoạn 4A: Khối u đã xâm lấn và gây tổn thương vào màng phổi hoặc màng tim.
Giai đoạn 4B: Ung thư đã di căn theo đường máu hoặc theo các bạch huyết.
Khối u ở tuyến ức là dạng ác tính và tiến triển khá chậm. Nếu được phát hiện sớm và điều trị tích cực kịp thời sẽ mang đến cho bệnh nhân nhiều hy vọng sống lâu hơn. Có các phương pháp điều trị ung thư tuyến ức như sau:
Phẫu thuật: Phẫu thuật loại bỏ hoàn toàn khối u là biện pháp phổ biến và chủ đạo nhất trong việc điều trị ung thư tuyến ức. Bác sĩ sẽ xem xét đánh giá mức độ xâm lấn của khối u đồng thời đánh dấu vị trí nghi ngờ để kiểm tra vi thể. Hầu hết các bệnh nhân ung thư tuyến ức đều được khuyến cáo phẫu thuật cắt bỏ cả tuyến ức để có tiên lượng tốt nhất.
Xạ trị: Khối u tuyến ức ác tính khá nhạy cảm với tia xạ nên phương pháp xạ trị có thể áp dụng được tại hầu hết các giai đoạn của bệnh, ngay cả trong trường hợp bệnh tái phát. Các bác sĩ sẽ chia liều lượng xạ trị dựa theo phần tổn thương còn lại sau khi phẫu thuật và các chỉ định xạ trị.
Hóa trị: Ung thư tuyến ức có đáp ứng tương đối cao đối với hóa trị. Phương pháp này thường được chỉ định trong trường hợp không thể thực hiện phẫu thuật được, phẫu thuật không cắt hết được khối u, khối u tái phát hoặc bị di căn ra vị trí xa.
Liệu pháp miễn dịch: Áp dụng liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư tuyến ức sẽ giúp tăng cường hệ miễn dịch trong cơ thể người bệnh bằng cách nuôi cấy và gia tăng các tế bào miễn dịch trong phòng thí nghiệm, sau đó tiêm trở lại vào cơ thể người bệnh và hoạt hóa chúng, kết hợp với một số loại thuốc kìm hãm sự phát triển của tế bào ung thư. Với phương pháp này, hệ miễn dịch tự thân của người bệnh sẽ tạo thành bức tường ngăn chặn sự xâm lấn của tế bào ác tính tuyến ức và dần tiêu diệt chúng.
Việc điều trị ung thư tuyến ức được hợp tác giữa Bệnh viện Hồng Ngọc với các bệnh viện đối tác hàng đầu Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc nhằm mang đến kết quả chữa trị cao nhất theo quy trình điều trị khép kín sau:
Theo đó, bệnh nhân sẽ được các chuyên gia hàng đầu về ung bướu trực tiếp thăm khám, chẩn đoán và đưa ra phác đồ điều trị phù hợp nhất với từng trường hợp, giúp cho quá trình điều trị đạt hiệu quả.
Chương trình hợp tác y tế giữa Bệnh viện Hồng Ngọc với các bệnh viện danh tiếng thế giới như BNH, Deagu Fatima và Kyungpook sẽ mang đến nhiều cơ hội tiếp nhận phương pháp điều trị tiên tiến cho những bệnh nhân ung thư tuyến ức nói riêng và bệnh nhân ung thư tại Việt Nam nói chung.
Theo đó, từng bệnh nhân sẽ được bác sĩ giỏi trực tiếp thăm khám, chẩn đoán và tư vấn phác đồ điều trị theo tiêu chuẩn quốc tế. Các bác sĩ tại đây đều là những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực ung bướu, với hàng trăm ca điều trị ung thư thành công cho các bệnh nhân ung thư đến từ các nước trên thế giới.